LAPIS LAZULI (LAPIS LAZULI)
Màu sắc
|
Lam, tím hoặc lam lục
|
Độ trong suốt
|
Thường đục
|
Màu sắc vết vạch
|
Lam sáng
|
Chiết suất
|
Khoảng 1,50
|
Độ cứng
|
5-6
|
Lưỡng chiết suất
|
Không
|
Tỷ trọng
|
2,50 – 3,00
|
Độ tán sắc
|
Không
|
Tính cát khai
|
Không
|
Tính đa sắc
|
Không
|
Vết vỡ
|
Vỏ sò, dạng hạt
|
Tính phát quang
|
Mạnh; trằng, da cam, vàng đồng
|
Thành phần hoá học
|
(NaCa)8[(SiO4,S,Cl)2I(AlSi)4]6, silicat natri, canxi và nhôm
|
Phổ hấp thụ
|
Không đặc trưng
|
Hệ tinh thể
|
Hệ lập phương, thường ở dạng tập hợp
|
|
|
Tên xuất phát từ tiếng La tinh có nghĩa là đá màu xanh và là tổ hợp của nhiều khoáng vật, ngoài lazulit (25-40%) còn có augit, calcit, diopsit, enstatit, mica, horblen, sodalit, pyrit,…Nguyên tố tạo màu là sulfur, màu thường không đồng đều, thường có dạng sọc hoặc dạng đốm. Lapis thường rất nhạy cảm với nhiệt độ và áp suất cao, hơi nóng, axit hoặc kiềm.
Nguồn gốc và phân bố: Loại lapis đẹp nhất thường được khai thác tại mỏ Hindu Kush (Apganixtan), khai thác nhiều tại Nga (vùng hồ Baikan), Chilê (tại Santiago), ngoài ra còn khai thác tại Angola, Miến Điện, Canada, Pakistan và Hoa Kỳ.
Các phương pháp xử lý và tổng hợp: Thường được nhuộm màu, hoặc có thể xử lý nhiệt ở nhiệt độ thấp có thể làm màu đẹp hơn, màu nhuộm thường phai dần theo thời gian.
Các đá dễ nhầm với lapis lazuli: dễ nhầm với azurit (trang), dumortierit (trang), lazulit (trang), sodalit (trang), và thuỷ tinh.